Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước. Trên cơ sở kế thừa Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc dân sự trong hoạt động tố tụng của tòa án nhân dân, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 được bố cục thành 10 phần, 42 chương, 517 điều (trong đó bổ sung mới 102 điều, sửa đổi, bổ sung 292 điều). Bài viết dưới đây sẽ chỉ những khái quát cơ bản nhất về điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:
- Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Theo Hiến pháp 2013, thì các quyền con người, quyền công dân về dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật ( Điều 14 luật Hiến pháp); đồng thời Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện, mọi yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác (theo quy định của pháp luật) thì Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết, không được từ chối; để tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Vì vậy để cụ thể hóa với Hiến pháp, đồng bộ với bộ luật và luật khác nên việc bổ sung quy định “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là rất cần thiết.
Đây là một trong những điểm mới nổi bật của BLTTDS 2015, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện, mọi yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác thì tòa phải có trách nhiệm giải quyết, không được từ chối.
Tuy nhiên, để tránh việc giải quyết tràn lan, không phải mọi khởi kiện, mọi yêu cầu nào của cơ quan, tổ chức, cá nhân Tòa án cũng thụ lý giải quyết, Bộ luật tố tụng đã giới hạn vụ việc chưa có điều luật để áp dụng mà Tòa án phải thụ lý giải quyết là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu đối với quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (gọi chung là quan hệ dân sự); còn các tranh chấp, các yêu cầu khác không phải là dân sự thì Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với các tranh chấp, các yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết mà chưa có điều luật quy định thì Tòa án phải căn cứ vào nguyên tắc sau đây:
- Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
- Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định tương tự pháp luật.
- Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
- Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Để nâng cao trách nhiệm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, Viện kiểm sát BLTTDS 2015 đã quy định rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của hai cơ quan này.
(1) Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
(2) Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 còn bổ sung thêm nội dung bảo vệ người chưa thành niên, giữ bí mật gia đình vào trách nhiệm bảo vệ của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cơ quan trực tiếp quản lý người tiến hành tố tụng đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Tuân thủ nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai
Trong hoạt động xét xử, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc xét xử kịp thời và công bằng, đây là nguyên tắc được nhấn mạnh và cũng là điểm mới mà trước đây BLTTDS 2004 chưa đề cập tới. Đối với những vụ án cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín.
- Bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp (Nghị quyết số 49/TW Bộ Chính trị), đồng thời cụ thể hóa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” đã được Hiến pháp quy định (khoản 5 Điều 103, Hiến pháp 2013), theo tinh thần đó BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” xem đây là một trong những nội dung quan trọng của việc sửa đổi bổ sung của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nội dung của nguyên tắc này có những điểm chủ yếu như sau:
(1) Việc tranh tụng được bảo đảm thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
(2) Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ; đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của BLTTDS năm 2015, nếu không thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.
(3) Trong quá trình tố tụng và tại phiên Tòa các chứng cứ của vụ án phải được công khai trừ trường hợp không được công khai định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS năm 2015. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai).
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên xét xử, cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, BLTTDS 2015 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Đây là một khâu đột phá trong hoạt động tư pháp, một trong những nội dung quan trọng của việc sửa đổi, bổ sung của BLTTDS.
Theo đó, việc tranh tụng được thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự được quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cũng như được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Tòa án có trách nhiệm điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án hoặc quyết định.
- Bổ sung thêm các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Ngoài những biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định trong BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời mới như:
- Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi việc xuất cảnh này ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, việc bảo đảm thi hành án…;
- Cấm người có hành vi bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về sau khi đã có quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án thì phải đồng thời quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.